Website Giáo dục mầm non - www.mamnon.com
  

Hạnh phúc của những người đến miền đất lạ


Bao nỗi vất vả chẳng thể nào kể hết, nhưng trong ánh mắt thầy cô vẫn ánh lên niềm hạnh phúc khi học trò đến trường đầy đủ, chăm chỉ học bài.

Giờ học của cô Lý Thị Thu và các học trò. Ảnh: NVCC

Nhiều nhà giáo tình nguyện đến nơi khó khăn nhất để làm việc. Bao nỗi vất vả chẳng thể nào kể hết, nhưng trong ánh mắt thầy cô vẫn ánh lên niềm hạnh phúc khi học trò đến trường đầy đủ, chăm chỉ học bài.

Băng rừng, lội suối đến trường

Điểm trường Sủng Quáng, Trường PTDTBT Sủng Máng (Mèo Vạc, Hà Giang) có hơn 100 học sinh từ mầm non đến lớp 2. Điểm trường này do 3 thầy, cô giáo phụ trách giảng dạy và chăm sóc trẻ.

Cô Lý Thị Thu - giáo viên chủ nhiệm lớp 1, với 25 học sinh có thâm niên 8 năm cắm bản. Trước khi đến với điểm trường Sủng Quáng, cô Thu từng dạy học ở 3 - 4 điểm trường khác cùng trên địa bàn xã Sủng Máng.

Những nơi cô Thu đến dạy học đều thuộc vùng đặc biệt khó khăn, 100% học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số. Có điểm trường nằm treo leo trên đỉnh núi, cũng có những điểm nằm lọt thỏm giữa thung lũng, bao quanh là dãy núi trùng điệp.

Ngay như điểm trường Sủng Quáng - nơi cô đang dạy học - cũng nằm giữa lưng chừng núi. Để đến trường, cô - trò phải băng rừng, lội suối. Nếu đi theo đường chính thì vượt qua nhiều con dốc dựng đứng.

Theo cô Thu, trước đây điểm trường Sủng Quáng được mệnh danh là vùng đất “4 không”: Không điện, không nước ngọt, không sóng điện thoại và không đường. Vì quá khó khăn nên nhiều năm qua, chỉ có thầy giáo mới có thể bám trụ được.

Giờ đây, được sự quan tâm của Nhà nước, chính quyền địa phương, cung đường đến điểm trường không còn bụi mù đất đỏ. Nhiều đoạn được bê tông hoá, nhưng “khúc cua tay áo” thì vẫn còn. Sóng điện thoại và điện lưới đã về với bản làng, dù vẫn chưa ổn định như mong muốn.

Hiện, một trong những khó khăn lớn nhất mà cô Thu và các đồng nghiệp phải đối diện là tình trạng thiếu nước ngọt và chưa có nhà công vụ. “Ở trên rẻo cao này chỉ trông chờ vào nước mưa. Vì thế, nước ở đây được quý như vàng. Trường chưa có nhà công vụ nên tôi ở phải trưng dụng một phòng học để ở và sinh hoạt hàng ngày”, cô Thu trải lòng.

Thế nhưng, những khó khăn trên chưa phải là trở ngại duy nhất mà cô Thu phải vượt qua. Cô kể, học sinh - là con em đồng bào - thường nhút nhát. Phụ huynh chưa có thói quen đưa con em đến trường. Vì thế cô Thu và các đồng nghiệp lại trèo đèo, lội suối đi vận động.

Ngoài ra, học sinh chưa nói sõi tiếng Việt. Vì thế, việc dạy - học của cô - trò gặp không ít khó khăn. Nhiều lúc cô phải sử dụng cả ngôn ngữ hình thể và những vật dụng trực quan để diễn tả cho học sinh hiểu.

“Mưa dầm thấm lâu”, cô - trò ngày càng gắn bó, tình cảm của bà con dân bản dành cho cô thêm thắm thiết. Nhiều hôm, phụ huynh cho con ngủ lại cùng cô giáo, vừa để cô kèm thêm, vừa để bầu bạn, giúp cô vơi đi nỗi nhớ con ở quê nhà - cách điểm trường hơn 200km. “Sủng Máng đã trở thành quê hương thứ 2 của tôi”, cô Thu tự hào nói.

Cô Nguyễn Thị Dạ Thảo và các học trò. Ảnh: NVCC

Gắn bó “máu, thịt”

Hơn 16 năm “cắm bản”, cô Đặng Thị Hà - giáo viên điểm trường Nậm Ngà, Trường Mầm non Tà Tổng (Mường Tè, Lai Châu) trở thành người con “chính hiệu” của dân bản. Vợ chồng cô đã chuyển hộ khẩu về xã Tà Tổng và xây dựng nhà cửa để thuận tiện cho công việc.

Quê Phú Thọ, năm 2007, cô tình nguyện lên Mường Tè (Lai Châu) dạy học dù bố mẹ, gia đình can ngăn. Nơi đầu tiên cô được phân công đến dạy học là bản Tia Ma Mủ - điểm trường khó khăn nhất của xã Tà Tổng. Năm 2008, cô Hà được luân chuyển về bản Nậm Ngà và công tác ở đó cho tới nay.

“Ngày đó, Nậm Ngà chưa có lớp học mầm non. Vì thế, tôi cùng với phụ huynh chặt tre, lấy nứa về đan phên, dựng lớp. Có lớp rồi, tôi phải trèo đèo, lội suối để đến từng nhà dân vận động cha mẹ cho trẻ đến trường. Có khi phải đi 5 - 6 lần mới gặp được phụ huynh.

Nhiều trẻ nhút nhát còn chạy trốn không muốn gặp cô giáo và không muốn đến lớp. Tuy nhiên, với sự kiên trì, bền bỉ vận động, phụ huynh đã đưa con em đến trường. Lớp học đầu tiên có 20 trẻ, ghép từ nhiều độ tuổi khác nhau”, cô Hà nhớ lại và cho biết: Từ năm 2017, lớp học được xây dựng kiên cố khang trang, sạch sẽ.

Hơn 15 năm “cắm bản”, chưa bao giờ cô Hà nản lòng. Hàng ngày, bên lớp học nhỏ đơn sơ, cô vẫn miệt mài chăm sóc các em nhỏ. Cô tích cực rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, nhằm mang lại những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em vùng cao.

Để trò dễ dàng nhận biết thế giới xung quanh, cô tự tay làm bộ đồ dùng, đồ chơi bằng nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương như cát, sỏi, tre, nứa… Cô cũng thiết kế các mô hình giúp trẻ phát triển vận động bằng lốp xe cũ... Qua đó, giúp trẻ hứng thú học tập và yêu thích đến trường.

Với tình yêu nghề, mến trẻ, 36 năm qua, cô Nguyễn Thị Dạ Thảo vẫn cần mẫn đứng trên bục giảng, miệt mài dạy từng con chữ và gieo ước mơ cho các em nhỏ. Cô Thảo là giáo viên Trường Tiểu học Hưng Phong (Giồng Trôm, Bến Tre). Nơi cô dạy học là vùng xã đảo, với những khó khăn, thiếu thốn đủ bề.

Thế nhưng, chưa bao giờ cô có ý định rời xa phấn trắng, bảng đen và cũng chưa bao giờ cô hết yêu nghề dạy học. “Dù khó khăn đến mấy, tôi quyết bám lớp, bám trường, cống hiến hết mình cho sự nghiệp “trồng người”. Với chúng tôi, nơi đây trở thành máu thịt, bản thân là người con của xã đảo” - cô Thảo bày tỏ.

Đợt dịch Covid-19 vừa qua, cô Thảo đến từng nhà học sinh để cài ứng dụng học trực tuyến. Nay, việc dạy - học đã trở lại bình thường nhưng có trò ngại đi học. Nhiều hôm, cô phải đến từng nhà vận động học sinh đi học trở lại, tình nguyện làm “xe ôm” đưa đón nhiều học sinh đến trường. Hình ảnh cô Thảo chạy xe chở học sinh đi học, rồi chở về nhà đã trở nên quen thuộc với người dân xã đảo.

 

Đợt dịch Covid-19 vừa qua, cô Thảo đến từng nhà học sinh để cài ứng dụng học trực tuyến. Nay, việc dạy - học đã trở lại bình thường nhưng có trò ngại đi học. Nhiều hôm, cô phải đến từng nhà vận động học sinh đi học trở lại, tình nguyện làm “xe ôm” đưa đón nhiều học sinh đến trường. Hình ảnh cô Thảo chạy xe chở học sinh đi học, rồi chở về nhà đã trở nên quen thuộc với người dân xã đảo.

 

Nguồn https://giaoducthoidai.vn