Nguyên nhân nào gây nên chứng khó đọc Các nhà nghiên cứu hiện vẫn chưa chắc chắn tại sao một số người mắc chứng khó đọc. Lý giải thuyết phục nhất cho rằng dường như có một liên kết di truyền trong các gia đình. Một số nhà nghiên cứu đã liên kết những thay đổi trong gen DCDC2 với các vấn đề về đọc và chứng khó đọc.
Trong khi đại đa số những người mắc chứng khó đọc mắc phải từ khi sinh ra, một số trường hợp có thể mắc phải thường là do chấn thương não hoặc đột quỵ.
Người mắc chứng khó đọc từ nhẹ đến trung bình có thể dễ dàng hơn để học một ngôn ngữ có mối liên hệ rõ ràng giữa hình thức viết và âm thanh của nó và với các quy tắc ngữ pháp nhất quán. Với các ngôn ngữ với các từ có mối liên hệ không rõ ràng giữa các hình thức viết và âm thanh của chúng có thể khó khăn hơn đối với người mắc chứng khó đọc.
Biểu hiện chứng khó đọc ở người lớn và trẻ em
Các triệu chứng khó đọc thay đổi theo tuổi tác và từng giai đoạn phát triển.
Trước khi trẻ đến trường:
Chậm phát triển lời nói và từ ngữ;
Khó khăn trong việc hình thành thói quen đọc và chọn lọc từ ngữ;
Gặp vấn đề lưu giữ thông tin, chẳng hạn như số, bảng chữ cái và tên của màu sắc;
Ở độ tuổi đi học:
Có khả năng đọc kém hơn các bạn đồng trang lứa;
Gặp khó khăn khi xử lý thông tin và ghi nhớ trình tự;
Gặp khó khăn khi xử lý âm thanh của những từ không quen thuộc;
Mất nhiều thời gian hơn với đọc và viết;
Lảng tránh các nhiệm vụ liên quan đến việc đọc;
Thanh thiếu niên và người lớn:
Gặp khó khăn khi đọc to;
Mất nhiều thời gian để đọc và viết;
Gặp khó khăn với chính tả;
Phát âm sai;
Gặp khó khăn khi nhớ lại các từ để mô tả các đối tượng hoặc chủ đề cụ thể;
Gặp khó khăn khi học ngôn ngữ khác, ghi nhớ văn bản và thực hiện các phép tính toán;
Rất khó để tóm tắt chủ đề hay câu chuyện;
Phân loại
Hiện tại không có phương pháp chẩn đoán chính thức nào nhằm phân loại chứng khó đọc, mặc dù các nhà nghiên cứu đang xem xét dựa vào các nhóm triệu chứng mà một số người gặp phải:
Chứng khó đọc âm vị học: Còn được gọi là chứng khó đọc hoặc khó đọc thính giác, liên quan đến việc khó phân chia các từ thành các đơn vị nhỏ hơn, khiến cho việc ghép các âm thanh với cách thức viết của từ trở nên khó khăn.
Chứng khó đọc bề mặt: Còn được gọi là chứng khó đọc hoặc rối loạn thị giác, điều này liên quan đến việc gặp khó khăn trong việc nhận ra từ bằng mắt, làm cho các từ trở nên khó học và khó ghi nhớ.
Nhanh chóng đặt tên từ thiếu sót (Rapid naming deficit): Liên quan đến việc gặp khó khăn khi đặt tên một chữ cái hoặc số khi người đó nhìn thấy nó.
Chứng khó đọc thiếu sót kép (Double deficit dyslexia): Liên quan đến việc khó phân lập âm thanh để đặt tên cho các chữ cái và số.
Đôi khi người ta cũng nhắc đến chứng khó đọc theo hướng, có nghĩa là người mắc phải gặp khó khăn khi đọc theo đúng trình tự các chữ từ trái sang phải.
Ngoài ra một người gặp khó khăn với các con số và toán học có thể mắc phải chứng khó học toán (dyscalculia). Tình trạng này đôi khi xảy ra độc lập hoặc đồng thời với chứng khó đọc.
Tóm lược
Chứng khó đọc là một tình trạng đặc biệt gây ra những thách thức không hề nhỏ cho việc đọc và viết.
Mặc dù không có cách chữa chứng khó đọc, nhưng nhiều phương pháp và công cụ có thể hỗ trợ người mắc phải thực hiện tốt các hoạt động hàng ngày.
Mỗi người mắc chứng khó đọc có các biểu hiện và tình trạng khác nhau nhưng với sự hỗ trợ phù hợp những người mắc bệnh này hoàn toàn có thể thự hiện tốt các công việc như một người bình thường.
Nguồn bvnguyentriphuong
|