Bệnh "ăn vào là chết" ở trẻ em Có nhiều trẻ khi sinh ra hoàn toàn khỏe mạnh, nhưng không hiểu vì sao sau khi được cho ăn, bú mẹ, trẻ lại yếu dần và tử vong. Một số trường hợp được xác định mắc bệnh rối loạn chuyển hóa bẩm sinh (RLCHBS). Bệnh rất nguy hiểm nhưng VN mới bắt đầu nghiên cứu và rất khó chẩn đoán bệnh khi trẻ còn trong bào thai.
Sữa mẹ cũng gây rối loạn chuyển hóa
Theo PGS-TS Nguyễn Thị Hoàn, Trưởng Khoa Các bệnh chuyển hóa và di truyền (BV Nhi Trung ương), đây là một trong số ít những trẻ được phát hiện sớm, đúng bệnh và được cứu sống. Hiện tại, cháu Nguyễn Th.T. đã được 3 tháng tuổi, phát triển bình thường nhưng cháu phải dùng một loại sữa đặc biệt, thực ra đây là một loại thuốc chỉ dành riêng cho những trường hợp bị RLCHBS. BV Nhi Trung ương là cơ sở đầu tiên ở VN nghiên cứu về hội chứng này và đã phát hiện 50 trường hợp có triệu chứng bệnh rõ ràng. Khó chẩn đoán được nguyên nhân Nhiều bác sĩ nhi khoa thừa nhận RLCHBS là một bệnh lý bẩm sinh phức tạp và rất khó chẩn đoán vì căn nguyên của bệnh không rõ ràng mà nằm trong gien. Theo PGS-TS Nguyễn Thanh Liêm, Giám đốc BV Nhi Trung ương, trình độ của các bác sĩ VN về lĩnh vực này còn rất hạn chế, thiết bị chẩn đoán bệnh thiếu. Hầu hết các mẫu xét nghiệm của BV Nhi Trung ương phải gửi sang Nhật Bản để phân tích. Việc cứu sống các bệnh nhân bị RLCHBS hiện cũng rất khó khăn, chỉ có khoảng 24% cháu bé được chữa khỏi hoàn toàn, nhưng việc điều trị sau đó trở nên khó khăn khi mà các loại sữa chuyên biệt cho những bệnh nhân này chưa có trên thị trường. Trong khi đó, việc sử dụng loại sữa đặc biệt cho trẻ bị RLCHBS cũng chính là một loại thuốc duy nhất điều trị nhằm bảo đảm trẻ được phát triển bình thường. RLCHBS là bệnh di truyền nên vấn đề sàng lọc trước sinh rất quan trọng, nhưng hiện các trung tâm sàng lọc trước sinh ở VN mới chỉ dừng lại ở xét nghiệm nhiễm sắc thể chứ chưa phân tích được ở mức độ gien, phân tử như yêu cầu của bệnh RLCHBS. Vì thế các bác sĩ khuyến cáo những gia đình bệnh nhân có tiền sử con chết nhiều lần không rõ nguyên nhân, bà mẹ cần được theo dõi ngay từ lúc mang thai. Ngoài ra, với nhóm có nguy cơ cao, cần làm các xét nghiệm về gen trước khi kết hôn hoặc quyết định có con.
Theo Netlife |